Pháp luật Tái chế

Nhu cầu nguyên vật liệu tái chế

Để vận hành một quy trình tái chế, việc cung cấp ổn định nguồn nguyên liệu tái chế là rất quan trọng. Có ba điều luật đã được sử dụng để tạo ra một nguồn cung cấp vật liệu: thu mua tái chế bắt buộc, luật về đặt cọc container và ban hành các lệnh cấm. Thu mua bắt buộc thiết lập các mục tiêu tái chế cho thành phố trong một khoảng thời gian nhất định nhầm mục đích tận dụng nguồn nguyên liệu. Chính quyền thành phố chịu trách nhiệm cho việc hoàn thành mục tiêu.[3] Luật tiền đặt cọc container là khoản tiền danh cho việc thu hồi các loại container nhất định như thủy tinh, nhựa, kim loại khi nó được sử dụng ngoài thị trường. Một biến thể của nó là việc yêu cầu nhà sản xuất chịu trách nhiệm về hàng hóa của mình. Tại liên minh Châu ÂU, hội đồng đã đưa ra chỉ thị WEEE để yêu cầu nhà sản xuất phải bồi hoàng chi phí cho nhà tái chế. Một cách khác để tăng nguồn cung cho việc tái chế là cấm sử dụng lại một số vật liệu đã qua sử dụng như chất thải, thường là dầu đã qua sử dụng, pin cũ, lốp, và rác thải của vườn. Mục tiêu chung của phương pháp này là tạo ra một nền kinh tế khả thi để xử lý đúng cách các sản phẩm bị cấm. Phải lưu ý rằng cần có đủ các công nghệ tái chế phù hợp với lệnh cấm không sẽ dẫn đến việc trao đổi rác thải bất hợp pháp tăng lên.[3]

Nhu cầu chính phủ

Pháp luật cũng đã được sử dụng để duy trì và tăng nhu cầu về vật liệu tái chế. Bốn đạo luật về vấn đề này tồn tại: quy định thực thi nội dung tái chế tối thiểu, tỷ lệ sử dụng, chính sách mua sắm, và ghi nhãn sản phẩm tái chế.[3]

Cả quy định thực thi nội dung tái chế tối thiểu và tỷ lệ sử dụng đều tăng nhu cầu trực tiếp bằng cách buộc các nhà sản xuất phải bao gồm việc tái chế trong các hoạt động của họ. Hàm lượng tái chế tối thiểu xác định rằng một phần trăm nhất định của một sản phẩm mới phải bao gồm vật liệu tái chế. Tỷ lệ sử dụng có sự lựa chọn linh hoạt hơn: các ngành công nghiệp được phép đạt được các mục tiêu tái chế tại bất kỳ điểm nào trong hoạt động của họ hoặc thậm chí hợp đồng tái chế ra để đổi lấy tín dụng thương mại. Những người phản đối cả hai phương pháp này chỉ ra sự gia tăng lớn trong việc làm các báo cáo cần thiết để chứng minh, điều này họ áp đặt rằng sẽ làm gia tăng sự cản trở tính linh hoạt của thị trường.[3][13]

Các chính phủ đã sử dụng khả năng mua của mình để tăng nhu cầu tái chế thông qua cái họ gọi là "chính sách mua sắm". Các chính sách này thực chất là "sự để dành", dự trữ một khoản chi tiêu nhất định chỉ dành cho các sản phẩm tái chế hoặc các chương trình "ưu đãi về giá" được cung cấp bởi ngân sách khi mua lại các vật dụng tái chế. Các quy định bổ sung có thể nhắm mục tiêu vào các trường hợp cụ thể như ở Hoa Kỳ, Cơ quan Bảo vệ Môi trường yêu cầu mua dầu, giấy, lốp xe và cách điện xây dựng từ nguồn tái chế hoặc tinh chế bất cứ khi nào có thể.[3]

Quy định cuối cùng của chính phủ đối với nhu cầu gia tăng việc tái chế sản phẩm là ghi nhãn sản phẩm tái chế. Nhà sản xuất được yêu cầu ghi nhãn bao bì của họ với số lượng sản phẩm có thể tái chế được trong sản phẩm (bao gồm cả bao bì) nhầm giúp cho người tiêu dùng có sự lựa chọn thông minh hơn trong việc chọn mua sản phẩm. Qua việc ghi nhãn hững người tiêu dùng có thể có nhiều lựa chọn có lợi cho môi trường hơn, những nhà sản xuất nhanh chóng tăng lượng nguyên liệu tái chế trong sản phẩm của họ và tăng nhu cầu tiêu dùng một cách gián tiếp. Việc ghi nhãn tái chế theo tiêu chuẩn cũng có thể có tác động tích cực đến việc cung cấp nguyên liệu tái chế và giúp tái chế dễ dàng hơn nếu việc ghi nhãn bao gồm thông tin về cách thức và nơi sản phẩm có thể được tái chế.[3]

Tái chế

Tái chế được định nghĩa là nguồn nguyên vật liệu được gửi đến và được chế biến trong nhà máy tái chế chất thải hoặc cơ sở phục hồi vật liệu, và nguồn vật liệu đó sẽ được sử dụng để tạo ra sản phẩm mới. Vật liệu được thu thập bằng các phương pháp khác nhau và được chuyển đến một cơ sở nơi nó được tái chế để nó có thể được sử dụng trong sản xuất các vật liệu hoặc sản phẩm mới. Ví dụ, chai nhựa được thu gom có thể được tái sử dụng hoặc tạo thành các viên nhựa để tạo ra sản phẩm mới.

Chất lượng tái chế

Tái chế chất lượng cao được công nhận là một trong những thách thức chính cần được giải quyết cho sự thành công của một kế hoạch có tầm nhìn dài hạn về một nền kinh tế xanh và không gây lãng phí.[14] Chất lượng tái chế thường nói đến lượng nguyên liệu thô mục tiêu được tạo ra là bao nhiêu so với lượng vật liệu không phải mục tiêu và các vật liệu không tái chế. Một tỷ lệ khá lớn lượng vật liệu không phải mục tiêu và vật liệu không tái chế gây khó khăn trong việc đạt mục tiêu tái chế chất lượng cao. Nếu chất tái chế có chất lượng kém, thì sẽ có xu hướng giảm xuống việc tái chế hoặc, trong trường hợp cực đoan, có thể đổi các phương án thu hồi khác hoặc được chôn lấp. Ví dụ, để tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất lại các sản phẩm thủy tinh rõ ràng, có những hạn chế chặt chẽ đối với thủy tinh màu đi vào quá trình tái phân hủy.[15]

Chất lượng tái chế không chỉ hỗ trợ việc tạo ra các sản phảm tái chế chất lượng cao mà còn mang lại những lợi ích về môi trường đáng kể bằng cách giảm, tái sử dụng và bảo quản sản phẩm khỏi các bãi chôn lấp. Tái chế chất lượng cao có thể giúp hỗ trợ tăng trưởng trong nền kinh tế bằng cách tối đa hóa giá trị kinh tế của chất thải thu được. Mức thu nhập cao từ việc bán sản phẩm được tái chế có chất lượng cao có thể mang lại giá trị có ý nghĩa đối với chính quyền địa phương, hộ gia đình và doanh nghiệp. Theo đuổi tái chế chất lượng cao cũng có thể cung cấp cho người tiêu dùng và doanh nghiệp sự tự tin trong ngành quản lý chất thải, tài nguyên và có thể khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực đó.

Có rất nhiều hành động dọc theo chuỗi cung cấp tái chế có thể ảnh hưởng và ảnh hưởng đến chất lượng vật liệu tái chế. Nó liên quan đến nhà sản xuất có chất thải mà không có các kế hoạch cũng như quy trinh cụ thể trong thu gom, tái chế chất thải. Điều này có thể gây ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm tái chế cuối cùng hoặc cần tốn thêm kinh phí trong yêu cầu loại bỏ những chất liệu này ở các giai đoạn sau của quá trình tái chế. Vận chuyển và nén chặt có thể làm khó tách biệt vật liệu thành từng loại riêng biệt trong quá trình tái chế. Các cơ sở phân loại không phải là một trăm phần trăm có hiệu quả trong việc phân loại vật liệu ban đầu, mặc dù cải tiến về công nghệ và chất lượng tái chế có thể làm mất chất lượng sản phầm cuối cùng. Việc lưu trữ các vật liệu bên ngoài nơi sản phẩm có thể bị ướt có thể gây ra vấn đề cho việc xử lý sơ bộ lại. Các cơ sở tái chế có thể yêu cầu các bước sắp xếp thêm để giảm lượng vật liệu không là mục tiêu và không tái chế được. Mỗi một công việc trong quy trình tái chế phục vục cho việc đảm bảo chất lượng tái chế.